ĐỌC BÀI THƠ “CÓ LẼ
NÀO”
CỦA HOÀI HUYỀN
THANH
CÓ LẼ NÀO…
Có lẽ nào ngày mai không còn nữa
Trời thêm xa và
đất lại thật gần
Có lẽ nào chốn
trầm luân cõi tạm
Nẻo nào xa còn lưu
luyến phân vân.
Có lẽ nào từ mong manh sợi khói
Từng ngày qua đau
đáu trái tim nhàu
Có lẽ nào con sông
quê thuở ấy
Bàng bạc trôi viễn
xứ chở niềm đau.
Có lẽ nào hoàng hôn chênh chếch bóng
Nghiêng nghiêng
đêm mộng mị đến nao lòng
Có lẽ nào lá vàng
rơi thật khẽ
Mây biết buồn và sao
cũng bâng khuâng.
Có lẽ nào nắng tàn phai trước ngõ
Bóng trưa hè thảng
thốt nén niềm đau
Có lẽ nào bài thơ
tình dang dở
Gió ru hời hạt
nắng cũng xôn xao…
HOÀIHUYỀNTHANH
4/201
Lời Bình:
Châu Thạch
Thảo luận về bài thơ “Có lẽ nào” của Hoài
Huyền Thanh nhà thơ Đan Thụy đã viết như sau: “Câu thơ dản dị, nhẹ nhàng, thanh
thoát nhưng cho ta những dấu hỏi thật lớn, càng suy nghĩ càng nao lòng”. Quả
vậy, vì những dấu hỏi đó tác giả lại đem đặt đàng sau những câu khẳn định, hay
đúng ra hỏi về những điều mà mọi người đã từng nếm trải trong cuộc sống trần
gian. Bài thơ có liên tục những câu hỏi, dồn đập những câu hỏi, thắc mắc về
những điều phi lý xảy ra trong cuộc đời, có tác dụng khơi dậy những niềm đau
của thân phận kiếp người đã hằn sâu trong tâm khảm, được ngụy trang bằng những
niềm vui tạm bợ giữa trần gian. Cái chữ “ nao lòng” mà nhà thơ Đan Thụy đã dùng
là ý thức được nỗi đau đứng bên bờ vực thẳm mà sự đen tối phía dưới kia không
bao giở giải được. Hãy nao lòng vì sự
chết đã được dùng ngay trong vế nhập đề:
Có lẽ nào ngày mai không còn nữa
Trời thêm xa và
đất lại thật gần
Có lẽ nào chốn
trầm luân cõi tạm
Nẻo nào xa còn lưu
luyến phân vân.
“ Có lẽ nào” không
đánh dấu hỏi phía sau là tiếng kêu thảng thốt, ta thán, trách móc về lẽ vô
thường và nỗi đau dằn vặt trong ý thức
con người về sự vô lý cứ yêu thương, lưu luyến nó. Bốn
câu thơ nầy hoàn toàn đem triết lý nhà Phật vào thơ nhưng nó không giải thích
triết lý mà đặt ra thành nan đề cho người đọc thơ suy nghiệm. Và rồi từ sự suy
nghiêm ấy con người sẽ thấy ngõ cụt của vấn đề, để con người càng ưu tư đến độ
phải cùng nhà thơ thốt lên lời than thở “ Nẻo nào xa còn lưu luyên phân vân”.
Chữ “ Có lẽ nào” ở đây nhắc chúng ta liên nghĩ đến có lẽ ngày xưa thái tử Tất-Đạt-Đa
cũng vì ba chữ nầy mà rời bỏ hoàng cung đi tìm con đường giải thoát. Tất-Đạt-Đa
thành Phật nhưng ta thì vẫn còn “trầm luân cõi tạm” nên cũng trầm luân trong
câu hỏi “có lẽ nào” kia. Bốn câu thơ cho ta hiểu thêm về “khổ đế” trong triết
lý nhà Phật không bằng suy luận của lý trí mà bằng cảm xúc của tâm hồn.
Ỏ vế thứ hai nhà thơ Hoài Huyền Thanh cởi bỏ
đi chiếc áo đóng vai tu sĩ, lộ nguyên hình một nhà thơ với những yếu đuối trong
tâm hồn, rung động đến từ mong manh của sợi khói đến niềm đau trôi dạt trên con
sông quê:
Có lẽ nào từ mong manh sợi khói
Từng ngày qua đau
đáu trái tim nhàu
Có lẽ nào con sông
quê thuở ấy
Bàng bạc trôi viễn
xứ chở niềm đau.
“Có lẽ nào” bây
giờ không hỏi về điều cao trọng của kiếp nhân sinh mà hỏi về điều thầm lặng dơn
sơ xảy ra trong lòng người nhưng nó cũng nặng nề không khác chi những điều cao
trọng. Sợi khói lại đau đáu nằm trong trái tim. Con sông quê mà lại chở niềm
đau, nghĩa là con sông ấy với hình ảnh của nó cũng đang trôi hoài trong trái
tim tác giả. Tác giả ý niệm về kỷ niệm đời người mong manh như sợi khói nhưng
nó lại không tan biến đi mà hằn sâu trong trí nhớ, đáu đáu ở trong tim. Sự mong
manh trở thành bền vững và sự bền vững chất chứa cái mong manh trong ý thơ làm
cho con người như biến thành sợi khói bay về vùng trời kỷ niệm. Bởi đó mà sự
“Bàng bạc trôi về viễn xứ chở niềm đau”cũng xảy ra trong lòng người khi đọc thơ
của tác giả.
Qua vế thứ ba nỗi
khắc khỏi về sự tàn phai, về sự tận cùng, về sự lâm chung của ngày như sự lâm
chung của cuộc đời cứ bâng khuâng trong lòng tác giả . Nỗi buồn muôn thưở ấy
được diễn tả bằng lời thơ trầm xuống như những tiếng thở dài não nuột nối theo
nhau:
Có lẽ nào hoàng hôn chênh chếch bóng
Nghiêng nghiêng
đêm mộng mị đến nao lòng
Có lẽ nào lá vàng
rơi thật khẽ
Mây biết buồn và
sao cũng bâng khuâng.
Hoàng hôn chếch
bóng là nan đề, đêm mộng mị là nan đề, lá vàng rơi là nan đề, mây cũng là nan
đề, tất cả mọi biến động trong không gian, trong thời gian, trong vạn vật đều
mang nan đề biến thành nỗi ưu tư trong lòng tác giả. “ Có lẽ nào” bây giờ là
dấu hỏi cho những điều xảy ra trước mắt, những điều mà cái nhìn làm cho cuộc
đời trở nên bi quan yếm thế. Tất cả cảnh trong thơ đều mang tâm trạng con người
cho nên thơ đã lồng được cái cao rộng của hồn người vào chung cùng vạn vật.
Ở vế chót bài thơ, điều chủ yếu nén sâu trong
lòng tác giả đến bây giờ mới được thốt lên. Đó là tình yêu, thứ mà chỉ một mình
nó đã làm cho trời đất, muôn vật quay cuồng:
Có lẽ nào nắng tàn phai trước ngõ
Bóng trưa hè thảng
thốt nén niềm đau
Có lẽ nào bài thơ
tình dang dở
Gió ru hời hạt
nắng cũng xôn xao…
Cả bài thơ sẽ
không thành hình nếu “bài thơ tình” không dang dở. “ Bài thơ tình dang dở’ là
mấu chót của bài thơ “Có lẽ nào”, là điều kéo theo những trải nghiệm cuộc đời
dưới đôi mắt bi quan, là điều trung tâm cho ý nghĩa của bài thơ. “ Bài thơ tình
dang dở” làm cho toàn bộ bài thơ đau đáu
nỗi suy tư bi luỵ về cuộc đời trở nên lảng mạn, làm cho bài thơ triết lý khô
khan trở nên trử tình, khiến người đọc thơ đương ở trong thế giới sầu bước qua thế giới của mộng mơ. Tác giả
thật khéo léo khi đem cả luật vô thường, đời người, quê hương đưa con người lên
đến đích đỉnh cao để cùng với mình buông tiếng thở dài hoài niệm tình yêu .
Thơ Hoài Huyền Thanh khi nào cũng là sự trầm
lắng chất chưa suy tư và kỷ niệm. Tiếng thơ Hoài Huyền Thanh dầu bắng những câu
từ ngắn gọn, thoảng như cơn gió bay qua song cửa hay dài bằng những vế thơ nối
tiếp cũng đều đem đến hồn ta sự bâng khuâng của hoài niệm , sự man mác của tình
yêu, sự vương vấn trong suy nghiệm và sự khoan khoái khi thấy một tâm hồn nên
thơ trải đều thanh âm trên bình diện cả bài thơ ./.
Châu Thạch